Ngày đăng 03/12/2025

Thúc đẩy công trình xanh, giao thông xanh hướng tới mục tiêu phát triển bền vững

Thúc đẩy công trình xanh, giao thông xanh hướng tới mục tiêu phát triển bền vững

Phát triển công trình xanh và giao thông xanh là hai cấu phần quan trọng của phát triển kinh tế xanh. Chúng không chỉ góp phần giảm phát thải và tiết kiệm tài nguyên, mà còn thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sống và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Công trình xanh là một bộ phận quan trọng của kinh tế xanh trong lĩnh vực xây dựng – đô thị, vì phát triển công trình xanh sẽ góp phần giảm tiêu thụ năng lượng, nước, vật liệu và giảm phát thải CO₂; Thúc đẩy sản xuất và sử dụng vật liệu xanh, vật liệu tái chế; Nâng cao hiệu quả sử dụng đất đô thị và chất lượng môi trường sống.

Giao thông xanh thuộc nhóm giải pháp giảm phát thải trong lĩnh vực vận tải, là trụ cột của kinh tế xanh trong hạ tầng – năng lượng – giao thông, bao gồm: Sử dụng phương tiện sạch (xe điện, xe nhiên liệu sinh học, đường sắt điện khí hóa…); Đầu tư hạ tầng giao thông bền vững (metro, BRT, đường sắt tốc độ cao, trạm sạc điện, giao thông thông minh); Giảm ùn tắc, giảm tiêu hao nhiên liệu, giảm ô nhiễm không khí. Giao thông xanh giúp chuyển dịch cơ cấu năng lượng và phát thải của nền kinh tế, đóng góp trực tiếp vào mục tiêu tăng trưởng xanh và trung hòa carbon.

 

 

Phát triển công trình xanh và giao thông xanh là hai cấu phần quan trọng của phát triển kinh tế xanh

 

Trong những năm gần đây, các vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã có yêu cầu “thí điểm phát triển mô hình kinh tế xanh, công nghiệp xanh, đô thị xanh, nông thôn xanh”.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường” trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030.

Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về "Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã nêu rõ Xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đến năm 2030 có Khuyến khích sử dụng vật liệu xanh, xây dựng và phát triển hạ tầng xanh, công trình xanh, tiêu thụ năng lượng xanh tại đô thị

Triển khai các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội Việt Nam đã thông qua các Luật Bảo vệ môi trường, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật Xây dựng, Luật Đường bộ, Bộ Luật Hảng hải Việt Nam, Luật Đường sắt, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam. Trong đó, các nội dung về phát triển công trình xanh, giao thông xanh đã được đề cập trong một số quy định của các Luật.

Thực hiện các chỉ đạo của Trung ương, đồng thời cụ thể hoá các quy định pháp luật liên quan đến công trình xanh, giao thông xanh, kinh tế xanh, phát triển bền vững, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, Quyết định để quy định, hướng dẫn và chỉ đạo phát triển các lĩnh vực này.

 

 

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh: Bộ Xây dựng đã và đang triển khai nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển công trình xanh và giao thông xanh

 

 

Công trình xanh và giao thông xanh là hai cấu phần quan trọng của phát triển kinh tế xanh. Đây không chỉ góp phần giảm phát thải và tiết kiệm tài nguyên, mà còn thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sống và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bộ Xây dựng đã và đang triển khai nhiều hoạt động nhằm thúc đẩy phát triển công trình xanh và giao thông xanh như:

(1) Tổ chức Sự kiện “Tuần lễ công trình xanh” thường niên trong 4 năm trở lại đây nhằm lan tỏa mô hình công trình xanh thông qua thiết kế thông minh, sử dụng vật liệu tiết kiệm năng lượng, áp dụng công nghệ hiện đại;

(2) Xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 876/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 phê duyệt “Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan của ngành giao thông vận tải” với các giải pháp cụ thể cho 05 chuyên ngành GTVT và giao thông đô thị, bao gồm phát triển hệ thống đường sắt đô thị, hệ thống đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia điện khí hóa, phát triển cảng xanh và lộ trình chuyển đổi phương tiện sang sử dụng điện và năng lượng xanh; Đồng thời, tổ chức các buổi tọa đàm, diễn đàn về chuyển đổi năng lượng xanh trong giao thông vận tải.

(3) Xây dựng và ban hành Quyết định số 385/QĐ-BXD ngày 12/5/2022 về Kế hoạch hành động của ngành Xây dựng ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26; Quy chuẩn QCVN 09 về “Các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả”,…

Một số kết quả đã thấy rõ là số lượng công trình xanh và phương tiện giao thông xanh liên tục phát triển trong năm 2024 và năm 2025 (Đến hết quý III năm 2025, số lượng công trình xanh trên cả nước đã đạt được khoảng trên 600 công trình với tổng diện tích sàn xây dựng khoảng gần 17 triệu m2; cả nước đã có 183.240 ô tô con điện và 974 xe buýt điện đang lưu hành. Hai địa phương dẫn đầu là Hà Nội với 38.445 ô tô con điện và 317 xe buýt điện, và TP. Hồ Chí Minh với 38.444 ô tô con điện và 507 xe buýt điện. Các địa phương khác như Đà Nẵng, Hải Phòng, Thanh Hóa, Khánh Hòa… cũng đang ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ), đóng góp quan trọng vào việc phát triển nền kinh tế xanh và bền vững.

 

ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP GIẢM PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH

Ông Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng): Phát triển công trình xanh, giao thông xanh vừa cơ hội, vừa là trách nhiệm của toàn xã hội

 

 

Hiện nay, hệ thống pháp luật và chính sách về công trình xanh, giao thông xanh của Việt Nam đã được hình thành khá đầy đủ. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc như công tác tuyên truyền còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Khả năng tiếp cận nguồn tín dụng xanh của doanh nghiệp và nhà đầu tư còn thấp. Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên sâu.

Chưa đa dạng chủng loại vật liệu xanh, vật liệu tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường. Chi phí đầu tư phương tiện xanh còn cao. Cơ chế tài chính, ưu đãi lãi suất chưa đủ mạnh để khuyến khích chuyển đổi quy mô lớn.

Từ thực tiễn đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch về phát triển công trình xanh và giao thông xanh; Xây dựng chính sách tín dụng, tài chính ưu đãi cho dự án xanh; Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu. Tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức của chủ đầu tư, doanh nghiệp, người dân; Khuyến khích sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường.

Phát triển công trình xanh, giao thông xanh vừa cơ hội, vừa là trách nhiệm của toàn xã hội, nhằm hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền vững theo tinh thần Kết luận số 70-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia".

 

Ông Lê Văn Đạt, Phó giám đốc Học viện Chiến lược, bồi dưỡng cán bộ xây dựng (Bộ Xây dựng): Tiềm năng giảm phát thải, ứng phó với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực giao thông vận tải

 

 

Giai đoạn 2014-2023, vận tải hành khách và hàng hóa bằng đường bộ của Việt Nam chiếm hơn 85% khối lượng vận chuyển. Lĩnh vực giao thông vận tải hiện có hơn 7 triệu ô tô, gần 78 triệu xe máy, cùng hàng trăm nghìn phương tiện đường thủy, hàng hải và hàng không. Tiêu thụ hơn 95% năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch và phát thải khoảng 45,8 triệu tấn CO2 tương đương (đứng thứ 2 sau ngành công nghiệp).

Đề xuất cho NDC 3.0 (Đóng góp do quốc gia tự quyết định lần thứ ba đối với lĩnh vực đường bộ), đến năm 2030, nhiên liệu sinh học và năng lượng điện phải được đẩy mạnh để thay thế dần năng lượng truyền thống.

Về vận tải đường sắt, điện được đưa vào sử dụng trong đường sắt đô thị từ giai đoạn năm 2019-2025. Hydrogen được đưa vào sử dụng năm 2040. Đến năm 2050, tỷ trọng đầu máy sử dụng các loại nhiên liệu diesel, điện và hydrogen lần lượt đạt khoảng 40%, 10% và 50%.

Trong lĩnh vực vận tải đường thủy nội địa, điện và hydrogen được đưa vào sử dụng từ năm 2035, không có sự thâm nhập của các dạng năng lượng xanh khác. Còn đối với hàng không, nhiên liệu hàng không bền sẽ được đưa vào thị trường từ năm 2035 với thị phần vào khoảng 10% tổng nhu cầu năng lượng của lĩnh vực hàng không.

Bà Lưu Thị Thanh Mẫu - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Phúc Khang (Phuc Khang Corporation): Công trình xanh tại Việt Nam không còn là một xu hướng nhất thời mà đã trở thành nhu cầu tất yếu

 

 

Hiện nay, công trình xanh tại Việt Nam không còn là một xu hướng nhất thời mà đã trở thành nhu cầu tất yếu. Nhận thức của người dân, doanh nghiệp và các nhà đầu tư đã có sự chuyển biến tích cực. Họ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến không gian sống khỏe mạnh, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. Tính đến đầu năm 2025, Việt Nam có khoảng 559 công trình xanh với tổng diện tích sàn được chứng nhận khoảng 13,6 triệu m². Con số này đã vượt xa mục tiêu đề ra trước đó, cho thấy sự phát triển đáng kể của công trình xanh tại Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, tỷ lệ công trình xanh ở nước ta vẫn còn khá khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực. Nguyên nhân chủ yếu đến từ chi phí đầu tư ban đầu cao và hệ thống chính sách khuyến khích chưa thực sự đồng bộ.

Thời gian gần đây, Bộ Xây dựng đang lấy ý kiến các bộ, ngành về Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ liên quan đến cơ chế kiểm soát, kiềm chế giá bất động sản, trong đó tập trung vào ba nhóm giải pháp chính: minh bạch hóa giao dịch thông qua việc thành lập Trung tâm giao dịch bất động sản và quyền sử dụng đất do Nhà nước quản lý; chính sách cho vay người mua nhà ở; và chính sách phát triển nhà ở thương mại giá phù hợp.

Tôi tin rằng với bối cảnh thực tế và nhiều nỗ lực như thế, triển vọng của công trình xanh trong tương lai, ít nhất là 5–10 năm tới là rất khả quan. Khi ý thức “sống xanh” dần trở nên phổ biến thì công trình xanh sẽ không còn bị xem là sản phẩm “xa xỉ”. Công trình xanh sẽ trở thành tiêu chuẩn sống bền vững của xã hội hiện đại. Cùng với đó, nhu cầu sống xanh tăng sẽ kéo theo sự phát triển của công nghệ vật liệu xanh, mở rộng quy mô thị trường, đồng thời có sự đồng hành mạnh mẽ hơn từ phía Nhà nước… Những điều này có thể giúp giá thành ngày càng hợp lý và khả năng tiếp cận ngày càng rộng mở.

 

 

Bà Nguyễn Thị Tâm, Giám đốc Trung tâm Thiết bị, môi trường và An toàn lao động (Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng): Đề xuất các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất vật liệu xây dựng

Về kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất vật liệu xây dựng, bằng nguồn lực trong nước, mục tiêu giảm phát thải của lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng đến năm 2030 giảm ít nhất 15,03% (tương ứng với 23,20 triệu tấn CO2 tương đương). Khi có hỗ trợ thêm của quốc tế thì mục tiêu sẽ giảm ít nhất 20,06% (tương ứng với 30,97 triệu tấn CO2 tương đương).

Để thực hiện kế hoạch, lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng sẽ triển các giải pháp khoa học công nghệ, như nghiên cứu áp dụng công nghệ mới, sử dụng chất thải, tối ưu hóa quy trình sản xuất, nghiên cứu công nghệ thu hồi carbon.

Các giải pháp quản lý, tăng cường năng lực như nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn chất thải, vật liệu phát thải carbon thấp; xây dựng các hướng dẫn thực hiện kiểm kê; xây dựng cơ chế tín chỉ carbon, thị trường carbon.

Bên cạnh đó, áp dụng các giải pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức; tăng cường hợp tác song phương, đa phương và huy động nguồn lực trong nước và quốc tế.

 

Ông Tạ Đức Bình, đại diện Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường): Việc huy động đầu tư xanh chính là chìa khóa để đảm bảo khả năng chống chịu và tăng trưởng dài hạn cho nền kinh tế quốc gia

Tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra với tốc độ đáng báo động, đòi hỏi những hành động quyết liệt từ các nhà hoạch định chính sách và cộng đồng đầu tư. Trong bối cảnh này, việc huy động đầu tư xanh chính là chìa khóa để đảm bảo khả năng chống chịu và tăng trưởng dài hạn cho nền kinh tế quốc gia. Đầu tư xanh bao gồm các lĩnh vực trọng tâm như: năng lượng tái tạo, hạ tầng xanh, giao thông sạch, nông nghiệp thông minh, quản lý rác thải và nước sạch. Trong đó, mỗi lĩnh vực không vận hành độc lập mà liên kết với nhau bằng nhu cầu năng lượng, vốn đầu tư và chính sách.

Ngân hàng Thế giới ước tính, Việt Nam sẽ cần khoảng 368 tỷ USD vào năm 2040 để đạt mục tiêu giảm phát thải ròng về 0. Nhu cầu tài chính khổng lồ này cũng đi kèm với những thách thức lớn về huy động vốn và xây dựng năng lực đổi mới, hạ tầng sản xuất và đào tạo nhân lực.

Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện Hệ sinh thái đầu tư xanh toàn diện, bao gồm cả khung pháp lý, cơ chế ưu đãi hấp dẫn và năng lực giám sát minh bạch, đặt nền móng cho một tương lai phát triển bền vững và thịnh vượng.

 

 

 

Bà Đỗ Ngọc Diệp, Quản lý Chương trình công trình xanh, công trình thích ứng rủi ro khí hậu Việt Nam, Tổ chức tài chính quốc tế (IFC): Việt Nam có nhiều tiềm năng để thúc đẩy mô hình xây dựng xanh

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu với nguy cơ tổn thất GDP có thể lên tới 12%, thậm chí 16% trong kịch bản tiêu cực nhất.

Tại Việt Nam, IFC đã giới thiệu các công cụ hỗ trợ ngành Xây dựng, bao gồm: Chương trình Chứng nhận công trình xanh EDGE; Bản đồ rủi ro khí hậu và khung đánh giá khả năng chống chịu với thiên tai cho công trình; Công cụ phân tích dữ liệu giúp các đô thị thiết lập lộ trình và chương trình hành động giảm phát thải...

Riêng về chứng nhận Công trình xanh EDGE, hiện có hơn 32.000 căn hộ và gần 3.600 căn nhà thấp tầng đạt chứng nhận này.

Các công trình sử dụng năng lượng hiện chiếm tới 40% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Do đó, việc chuyển đổi mô hình xây dựng theo hướng xanh và thích ứng khí hậu được coi là chìa khóa để đạt mục tiêu giảm phát thải và bảo vệ môi trường.

Việt Nam có nhiều tiềm năng để thúc đẩy mô hình xây dựng xanh và chống chịu khí hậu trên quy mô toàn quốc. IFC cam kết đồng hành cùng Việt Nam trên con đường hướng tới nền kinh tế xanh, bền vững và thích ứng khí hậu.

 

Chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu tất yếu của thời đại

 

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH

Thứ nhất, chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu tất yếu của thời đại. Những kinh nghiệm quý báu từ các nước tiên tiến và thực tiễn triển khai tại Việt Nam đều khẳng định rằng công trình xanh và giao thông xanh đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam, tiến tới hội nhập quốc tế sâu rộng về phát triển kinh tế xanh.

Thứ hai, dù đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, con đường phát triển công trình xanh và giao thông xanh vẫn còn nhiều thử thách. Qua những chia sẻ từ các doanh nghiệp, chúng ta hiểu rõ hơn về những rào cản thực tế: từ cơ chế chính sách, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn xanh, đến áp lực chi phí đầu tư ban đầu cho chuyển đổi xanh. Trong giai đoạn phát triển kinh tế vừa qua, chúng ta mới chỉ đưa vào yếu tố “Nhà nước khuyến khích” phát triển thị trường công trình xanh. Để tương xứng với xu thế phát triển mới, thì các công trình sử dụng vốn đầu tư công cũng cần xem xét quy định theo hướng công trình xanh nhằm dẫn dắt thị trường phát triển.

Thứ ba, các trao đổi, đề xuất của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; cùng với các đề xuất về cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy công trình và giao thông xanh có giá trị hết sức to lớn. Là kênh thông tin quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương trong đó có Bộ Xây dựng tham khảo trong công tác xây dựng và triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách phát triển công trình xanh và giao thông xanh trong thời gian tới. Mục tiêu của chúng ta là hướng tới đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tháo gỡ các “điểm nghẽn” để tăng tốc phát triển các công trình xanh và hệ thống giao thông xanh trong ngành Xây dựng; từng bước nâng cao chất lượng các quy định theo hướng hiện đại, tiếp cận các thông lệ tiên tiến của quốc tế và phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

 

Tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra với tốc độ đáng báo động, đòi hỏi những hành động quyết liệt từ các nhà hoạch định chính sách và cộng đồng đầu tư 

 

0969.458.793

Đăng ký học